Thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch ở người cao tuổi

Thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch là thuật ngữ chung của hai thể lâm sàng của cùng một bệnh là thuyên tắc phổi và huyết khối tĩnh mạch sâu chi dưới; hay cách khác được hiểu là bệnh lý xảy ra khi có cục máu đông hình thành và làm tắc nghẽn một hoặc nhiều tĩnh mạch. Vì cục máu đông hình thành trước trong các tĩnh mạch ở chân (cẳng chân, đùi, vùng chậu…), sau đó, các phần tử từ huyết khối bong ra, di chuyển đến tĩnh mạch chủ dưới vào buồng tim phải và làm tắc nhánh động mạch phổi gây nên tình trạng thuyên tắc phổi.

Thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch là bệnh như thế nào?

Thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch (TTHKTM) là nguyên nhân phổ biến đứng hàng thứ ba trong số các bệnh lý tim mạch thường gặp trên toàn cầu, sau nhồi máu cơ tim và đột quỵ. TTHKTM biểu hiện lâm sàng dưới dạng huyết khối tĩnh mạch sâu (HKTMS) hoặc thuyên tắc phổi (TTP). Theo báo cáo ở Hoa Kỳ có khoảng 900.000 trường hợp mắc HKTM và 300.000 người chết vì TTP hàng năm. Biến chứng nặng nhất của TTHKTM là thuyên tắc phổi (TTP). Tử vong do TTP khoảng 30% nếu không được điều trị. Nếu điều trị thích hợp, tỉ lệ tử vong còn khoảng 2%.

Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu cho thấy tuổi cao là một trong những yếu tố nguy cơ làm tăng tỉ lệ mắc HKTM, tỉ lệ xảy ra các biến cố nghiêm trọng hay tử vong cũng cao hơn ở đối tượng này. Người cao tuổi thường có tình trạng đa bệnh đa thuốc, các triệu chứng cũng không rầm rộ, gây khó khăn trong việc chẩn đoán bệnh lý TTHKTM, cũng như có sự tương tác giữa các loại thuốc với nhau hay đáng lo ngại hơn là biến chứng chảy máu khi sử dụng thuốc chống đông trên những đối tượng này. Các yếu tố liên quan đến sự xuất hiện của HKTM ở người cao tuổi bao gồm phẫu thuật, chấn thương, nằm liệt giường, ung thư, béo phì, các bệnh đi kèm khác… Do đó, việc đánh giá đúng nguy cơ TTHKTM và sử dụng biện pháp dự phòng hợp lý là rất quan trọng trong cả nội khoa và ngoại khoa, đặc biệt trên đối tượng người cao tuổi.

Tại Việt Nam, theo nghiên cứu của tác giả Đặng Văn Phước và Nguyễn Văn Trí trên bệnh nhân bệnh nội khoa cấp tính cho thấy tỉ lệ HKTMS ở bệnh nhân nội khoa cấp tính nằm viện là 28%, trong đó, cao nhất bệnh nhân bị đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính (36,4%) và thấp nhất ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim (20%). Nghiên cứu của tác giả Điêu Thanh Hùng và cộng sự năm 2013 tại bệnh viện tim mạch An Giang cho thấy tỉ lệ HKTMS ở người bệnh nội khoa cấp tính là 13,5%, trong đó tỉ lệ HKTMS ở người bệnh suy tim: 27,3%, ở người bệnh tai biến mạch máu não: 5,3%.

Có rất nhiều yếu tố nguy cơ góp phần vào việc tăng tỉ lệ tắc nghẽn mạch máu ở người cao tuổi nhưng trong số đó, yếu tố nguy cơ thường gặp nhất là tình trạng bất động, ung thư và các bệnh lý đồng mắc. Bên cạnh đó, những bất thường trong hệ thống đông máu, do di truyền hoặc do mắc phải cũng được xem như là yếu tố quan trọng và đặc biệt ở người cao tuổi thì nghiêm trọng hơn so với người trẻ và trung niên.

Các triệu chứng & biểu hiện của bệnh

HKTMS thường gây triệu chứng sưng, đỏ, đau ở chân bị ảnh hưởng, có thể phù chân, nổi tĩnh mạch dưới da và đôi khi bệnh nhân cũng không có triệu chứng. Để chẩn đoán được HKTMS bệnh nhân cần được làm các cận lâm sàng như: xét nghiệm D-dimer, siêu âm Doppler mạch máu chi dưới, chụp tĩnh mạch có cản quang, CT tĩnh mạch hoặc MRI tĩnh mạch hoặc các xét nghiệm máu, yếu tố đông máu khi nghi ngờ bệnh nhân mắc các bệnh lý di truyền.

Đối với TTP bệnh nhân thường có triệu chứng đau ngực và khó thở chiếm khoảng 70%. Ngoài ra bệnh nhân có thể có ho ra máu, thở nhanh, tím tái hoặc chóng mặt, ngất xỉu. Các xét nghiệm cần thiết trong chẩn đoán TTP bao gồm: đo điện tim, xét nghiệm D-dimer, chụp Xquang phổi, siêu âm Doppler tim, siêu âm đè ép tĩnh mạch sâu chi dưới, chụp cắt lớp vi tính động mạch phổi có cản quang, chụp động mạch phổi có thuốc cản quang…

Các biện pháp dự phòng thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch

Nhằm dự phòng HKTMS trên những bệnh nhân nguy cơ cao chúng ta có thể dùng thuốc kháng đông hoặc sử dụng biện pháp không dùng thuốc như máy bơm hơi áp lực ngắt quãng hoặc chun áp lực và đơn giản nhất là việc vận động sớm. Khi bệnh nhân có bằng chứng về sự hiện diện của cục máu đông trong tĩnh mạch sâu ở chân, theo khuyến cáo của Hiệp hội Lồng ngực Hoa Kỳ dùng thuốc kháng đông trong điều trị ban đầu. Ngoài ra còn có các phương pháp điều trị khác như thuốc tiêu sợi huyết, can thiệp phẫu thuật lấy huyết khối hoặc đặt màng lọc tĩnh mạch chủ dưới.

Các phương pháp điều trị

Với bệnh nhân tắc nghẽn mạch máu phổi cần phân tầng mức độ để lựa chọn điều trị phù hợp. Các phương pháp điều trị bao gồm: thuốc kháng đông, thuốc tiêu sợi huyết, lấy huyết khối động mạch phổi bằng catheter, phẫu thuật lấy huyết khối động mạch phổi, đặt màng lọc tĩnh mạch chủ dưới…

Kết luận

Nhìn chung, người cao tuổi thường có tình trạng đa bệnh đa thuốc, các triệu chứng cũng không rầm rộ, gây khó khăn trong việc chẩn đoán bệnh lý tắc nghẽn mạch máu, cũng như có sự tương tác giữa các loại thuốc với nhau hay đáng lo ngại hơn là biến chứng chảy máu khi sử dụng thuốc chống đông trên những đối tượng này. Với tình trạng quá trình già hóa ở các nước tiếp tục tăng nhanh chóng, bệnh lý tắc nghẽn mạch máu trở thành một vấn đề sức khỏe lớn. Chính vì vậy việc nhận biết các yếu tố rủi ro cũng như hiểu được tầm quan trọng của chúng trong việc phát triển HKTM là điều cần thiết để phát hiện sớm HKTM nhằm ngăn ngừa các biến chứng không mong muốn cho người cao tuổi.

Biên soạn bởi: BS. Trần Thị Mỹ Nhật

Bác sĩ Khoa Cấp cứu, Bệnh viện Đa khoa Hồng Hưng

———————————————————————–

BỆNH VIỆN ĐA KHOA HỒNG HƯNG

Thời gian hoạt động: Khám ngoại trú từ Thứ hai đến Chủ nhật hàng tuần, buổi sáng 6h00 – 12h00, buổi chiều 13h00 – 16h00, ngoài giờ: 16h – 19h | Cấp cứu: 24/7